I. Giới thiệu
T
|
àu
đệm từ (tiếng Anh: Magnetic levitation transport, hay maglev) là một phương tiện
chuyên chở được nâng lên, dẫn lái và đẩy tới bởi lực từ hoặc lực điện từ. Phương pháp này có thể nhanh và tiện
nghi hơn các loại phương tiện công cộng sử dụng bánh xe, do giảm ma sát và loại
bỏ các cấu trúc cơ khí. Tàu đệm từ có thể đạt đến tốc độ ngang với máy bay sử dụng
động cơ cánh quạt hay phản lực; tức là tới khoảng 500 đến 580 km/h. Tàu đệm từ
đã được sử dụng trong thương mại từ 1984. Tuy nhiên, các giới hạn về khoa học
và kinh tế đã cản trở sự phát triển của kỹ thuật mới này.
Kỹ thuật nâng bằng lực từ không có gì trùng lặp
với kỹ thuật tàu sử dụng bánh xe và do vậy không tương thích với đường ray xe lửa
truyền thống. Do không sử dụng chung các cơ sở hạ tầng đang hiện có, tàu đệm từ
phải được thiết kế với một hệ thống giao thông hoàn toàn mới. Thuật ngữ
"tàu đệm từ" không chỉ đơn thuần chỉ đến phương tiện chuyên chở mà
còn bao gồm cả sự tương tác giữa tàu và đường ray; mỗi cái được thiết kế đặc biệt
tương thích lẫn nhau để tạo ra lực nâng và điều khiển chính xác việc nâng lên
và đẩy tới bằng lực điện từ.
Bởi vì không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa đường
ray và tàu, nên chỉ có lực ma sát giữa con tàu và không khí. Do đó, tàu đệm từ
có khả năng di chuyển với vận tốc rất cao, tiêu tốn ít năng lượng và có thể gây
ra ít tiếng ồn. Các hệ thống đã được đề nghị có thể hoạt động với vận tốc lên đến
650 km/h, nhanh hơn nhiều lần so với tàu hỏa truyền thống. Tốc độ rất cao của
tàu đệm từ làm chúng có thể cạnh tranh với các đường bay dưới 1.000 kilômét. Ứng
dụng thương mại đầu tiên trên thế giới của tàu đệm từ cao tốc là tuyến thử nghiệm
ở Thượng Hải (IOS, initial operating segment) vận chuyển hành khách trên quãng
đường dài 30 km từ thành phố đến sân bay chỉ trong 7 phút 20 giây (tốc độ cao
nhất là 431 km/h, tốc độ trung bình 250 km/h). Các dự án tàu đệm từ khác trên
thế giới đang được nghiên cứu về tính khả thi.
II. Tổng quan
Thuật ngữ “tàu đệm từ” không phải chỉ đề cập
riêng đến loại phương tiện tàu mà nó là cả một hệ thống gồm tàu và đường ray có
cấu tạo rất tốt với thiết kế bằng động cơ từ trường đẩy để nâng tàu lên. Kỹ thuật
tàu nâng bằng lực từ không có gì trùng lặp với kỹ thuật tàu sử dụng bánh xe và
do vậy không tương thích với đường ray xe lửa truyền thống.
Có hai loại công nghệ “tàu đệm từ” đang được
chú ý đặc biệt hiện nay:
v EMS (Electromagnetic suspension):
Nam châm điện được điều khiển bằng điện từ trong tàu để hút nó vào đường ray có
từ tính (thường là thép).
v EDS (Electrodynamic suspension): Sử
dụng nam châm siêu dẫn hoặc nam châm vĩnh cửu mạnh để tạo ra một từ trường gây
ra dòng điện trong dây dẫn kim loại gần đó, khi có sự chuyển động tương đối với
việc đẩy và kéo tàu chạy cùng với việc bay lên dựa trên thiết kế của đường dẫn.
Một công nghệ thử nghiệm đã được thiết kế, chứng
minh về mặt toán học, xem xét kĩ lưỡng và cấp bằng sáng chế, nhưng chưa được
xây dựng, đó là công nghệ giảm xóc nhờ lực từ MDS (Magnetodynamic suspension),
trong đó sử dụng lực hút từ tính của một hệ thống nam châm vĩnh cửu lắp đặt cạnh
đường ray bằng thép để nâng tàu lên và giữ nó tại chỗ. Các công nghệ khác như
nam châm vĩnh cửu có tính đẩy và nam châm siêu dẫn cũng đã được nghiên cứu.
III. Đường ray tàu đệm từ (Track Maglev) và nguyên lý hoạt động
Các cuộn dây từ hóa chạy dọc theo đường ray, được gọi là một đường dẫn,
đẩy lùi các nam châm lớn trên bánh đáp của tàu, cho phép tàu bay lên từ 0,39 đến
3,93 inch (từ 1 đến 10 cm) trên đường dẫn. Khi tàu bay lên, năng lượng được
cung cấp cho các cuộn dây trong các đường dẫn để tạo ra một hệ thống duy nhất của
từ trường kéo và đẩy tàu dọc theo đường dẫn. Dòng điện cung cấp cho các cuộn
dây trong các đường dẫn liên tục luân phiên thay đổi cực của các cuộn dây từ
hóa. Sự thay đổi cực này gây ra từ trường ở phía trước con tàu để kéo tàu về
phía trước, trong khi từ trường phía sau tàu tăng thêm lực đẩy về phía trước
cho tàu.
Tàu đệm từ là loại tàu di chuyển trên không
khí, do đó, nó giảm được lực ma sát rất nhiều so với các con tàu bình thường, lực
ma sát chủ yếu ở đây là lực ma sát không khí. Với thiết kế khí động lực để giảm
ma sát không khí, con tàu có thể đạt tốc độ hơn 310 mph (500 km/h), gấp hai lần
con tàu siêu tốc nhanh nhất hiện nay là Amtrak, hay là một chiếc Boeing – 777 sử dụng cho các
chuyến bay xa với tốc độ 562 mph (905 km/h). Với tốc độ 310 mph thì bạn có thể
đi từ Paris đến Rome chỉ mất khoảng 2 giờ đồng hồ.
Đức và Nhật Bản là hai quốc gia đang chạy thử
nghiệm loại tàu đệm từ này. Mặc dù dựa trên những tính chất tương tự nhưng hai
loại tàu của hai quốc gia là có sự khác biệt rõ rệt.
v Ở Đức, các kĩ sư thiết kế hệ thống
EMS. Trong hệ thống này, dưới đáy tàu sẽ được quấn các vòng thép. Nam châm điện
sẽ hút trực tiếp các bánh đáp của con tàu làm cho con tàu chuyển động về phía
trước đường dẫn, nó làm cho con tàu bay lên với khoảng cách 1/3 inch (1 cm) và
giữ con tàu bay lên ngay cả khi nó dừng chuyển động. Một nam châm khác sẽ đặt
trong con tàu để giữ nó ổn định trong suốt quá trình chuyển động. Đức đã khẳng
định con tàu đệm từ Transrapid của họ có thể đạt tới 300 mph khi có người trên
tàu.
v Trong khi đó, các kĩ sư Nhật Bản
đang phát triển hệ thống EDS. Sự khác nhau cơ bản của Nhật Bản so với Đức chính
là họ sử dụng hệ thống làm mát bằng vật liệu siêu dẫn. Loại nam châm điện có thể
cung cấp điện ngay cả khi nguồn điện đã tắt. Trong hệ thống EMS của Đức, sử dụng
các nam châm điện tiêu chuẩn, các cuộn dây chỉ có thể dẫn điện khi nguồn điện
cung cấp dòng điện chạy qua. Bằng cách làm lạnh hệ thống ở nhiệt độ siêu dẫn, hệ
thống của Nhật Bản sẽ rất tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên, chi phí của nó thì lại
không rẻ một chút nào. Một sự khác biệt nữa đó là hệ thống tàu đệm từ của Nhật
Bản có thể bay lên gần 4 inch (10 cm) trên đường dẫn. Tuy nhiên, một trở ngại với
hệ thống EDS là con tàu phải được cuộn trên các lốp cao su cho đến khi tốc độ cất
cánh là 62 mph (100 km/h). Các kĩ sư Nhật Bản nói rằng các bánh xe là một ưu điểm
nếu xảy ra hiện tượng mất điện cho toàn bộ hệ thống, trong khi đó tàu
Transrapid của Đức được
trang bị với một pin điện trong
các trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra, các hành khách sẽ có một
thiết bị bảo vệ tránh tác hại của các từ trường do nam châm điện siêu dẫn gây
ra.
Nam châm vĩnh cửu trước đó đã không được sử dụng
bởi vì các nhà khoa học nghĩ rằng chúng sẽ không tạo ra đủ lực từ để nâng. Tuy
nhiên, thiết kế Inductrack đã làm thay đổi bằng cách sắp xếp các nam châm trong
một mảng Halbach. Các nam châm được định hình sao cho các cường độ của từ trường
tập trung ở trên mảng thay vì ở dưới. Chúng được làm từ một loại vật liệu mới
bao gồm một hợp kim Nd – Fe – Bo tạo ra một loại có từ tính cao hơn. Inductrack
II thiết kế kết hợp hai mảng Halbach để tạo ra một từ trường mạnh hơn với tốc độ
chậm.
IV. Nhận xét
Tóm lại, tàu được nâng lên và được đẩy về phía
trước, khi đó các thanh nam châm của tàu và đường lại khác cực, nếu tiếp tục
như vậy thì tàu sẽ bị hút xuống , không chuyển động được. Như lúc đầu đã nói,
tàu được gắn các thanh nam châm điện, nên khi đó dòng điện sẽ đổi cực để các
thanh nam châm trên tàu đổi cực theo, lại cùng cực với thanh nam châm của đường
ray và được nâng lên, đẩy tới . Quá trình được thực hiện liên tục và rất nhanh
nên tàu chạy rất êm và nhanh .
Tàu chạy bằng đệm từ là một
phương tiện rất hữu ích trong tương lai, nó có thể chạy với tốc độ ngang bằng tốc
độ máy bay, giảm được thiệt hại do ma sát trượt gây ra trên đường ray, ngoài ra
còn tránh gây ô nhiễm tiếng ồn cho môi trường xung quanh, tiết kiệm năng lượng
khá nhiều, chỉ bằng khoảng 50% năng lượng của máy bay hiện nay. Tuy nhiên, dự án mới chỉ mang tính
thử nghiệm ở một số nước và độ an toàn chưa được đảm bảo chắc chắn, cho nên vẫn
cần mất thêm thời gian để tính khả thi cao hơn. Chi phí làm ra con tàu và hệ thống
đường ray cũng khá tốn kém, không phải nước nào cũng có điều kiện phát triển.
Hi vọng trong tương lai gần, hệ thống tàu đệm từ sẽ xuất hiện trên thế giới nhiều
hơn và trong đó có Việt Nam.
V. Tài liệu tham khảo
-------------------Hết------------------
Tàu đệm từ from Lee Ein
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét