ALEXI ASSMUS
Việc khám phá ra tia X vào năm 1895 là sự khởi đầu của một
sự thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức của chúng ta về thế
giới vật chất.
Vào mùa đông năm sinh nhật thứ 50 của mình, và một năm sau khi được
bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo tại trường đại học Würzburg, Wilhelm Conrad
Roentgen để ý thấy một màn ảnh barium platinocyanide phát huỳnh quang
trong phòng thí nghiệm của ông khi ông dùng ống Crookes tạo ra tia
cathode cách đó không bao xa. Tạm gác qua một bên trách nhiệm của ông
đối với trường đại học và các sinh viên, ngài hiệu trưởng Roentgen dành
trọn sáu tuần sau đó trong phòng thí nghiệm của ông, tự mình nghiên cứu,
không chia sẻ bất cứ điều gì với đồng nghiệp hết.
Ba ngày trước Giáng sinh, ông đã đưa vợ đến phòng thí nghiệm, và thực
hiện bức ảnh chụp lịch sử thể hiện xương bàn tay và chiếc nhẫn đeo trên
ngón tay của vợ ông. Hội Vật lí Y khoa Würzburg là nơi đầu tiên nghe
báo cáo về các tia mới có khả năng đâm xuyên qua cơ thể và chụp ảnh
xương người. Roentgen chính thức công bố kết quả vào ngày 28 tháng 12
năm 1895. Emil Warburg tường thuật lại kết quả đó trước Hội Vật lí
Berlin vào hôm 4 tháng 1. Ngày hôm sau, tờ báo Wiener đăng tin, và hôm
sau nữa thì tin tức về khám phá của Roentgen bắt đầu lan tỏa khắp thế
giới qua con đường điện báo.
Ngày 13 tháng 1, Roentgen trình diện Kaiser và được thưởng Huân
chương Hoàng gia Phổ, Hạng nhì. Và vào ngày 16 tháng 1, tờ New York
Times công bố khám phá trên là một dạng nhiếp ảnh mới, chụp ảnh các vật
rắn chứa tiềm ẩn bên trong, đâm xuyên qua gỗ, giấy, da thịt, và làm hiện
ra giàn khung của bộ xương người. “Những người làm khoa học trong thành
phố này đang hết sức nóng lòng chờ đợi sự xuất hiện của các tạp chí
chuyên ngành bằng tiếng Anh cung cấp đầy đủ các chi tiết về khám phá của
giáo sư Roentgen về phương pháp chụp ảnh các vật không trong suốt”. Tờ
New York Times mở đầu như vậy, và tờ báo kết luận với việc dự đoán “sự
chuyển mình của khoa phẫu thuật hiện đại bởi sự cho phép nhà phẫu thuật
phát hiện ra sự có mặt của những vật thể ngoại lai” (số ngày 16/01/1896,
trang 9).
Wilhelm Conrad Roentgen (1845–1923). (Ảnh: AIP Emilio Segré Visual Archives)
Công chúng đã bị mê hoặc trước phương pháp chụp ảnh mới này và họ tò
mò muốn biết bản chất của các tia mới phát hiện đó. Các bác sĩ đưa nó
vào ứng dụng ngay tức thời. Các nhà vật lí thì đứng ngồi không yên và cố
gắng tìm hiểu nó. Khám phá ra tia X là thành tựu đầu tiên trong ba khám
phá làm thức tỉnh cả cộng đồng khoa học đa ngành, đa lĩnh vực, khép lại
những trang sách với những phép đo ngày một chính xác hơn, tự chấm dứt
những cuộc tranh cãi về cơ học thống kê, hay cố gắng lí giải mọi hiện
tượng vật lí bằng những thăng giáng chính xác về mặt toán học của ê te.
Cả ba khám phá, tia X, tia uranium, và electron, là thành tựu phát sinh
từ một trong những truyền thống thực nghiệm chủ đạo trong nửa sau thế kỉ
19, đó là nghiên cứu sự phóng điện trong chất khí. Cả ba khám phá đã
góp phần làm chuyển biến sâu sắc đối với nền vật lí học. Trong thế kỉ
thứ 20, ngành vật lí tập trung vào nghiên cứu các hạt sơ cấp.
Giống như với trường hợp phát minh ra bóng đèn nóng sáng, việc nghiên
cứu sự phóng điện qua chất khí được thực hiện nhờ sự phát triển của
công nghệ chân không cải tiến trong thập niên 1850. Ngay từ đầu, các nhà
khoa học nói tiếng Anh đã nghiên cứu các miền sáng tối xuất hiện trong
các ống thủy tinh-chì hàn kín. Các miền sáng tối trong những ống hút
chân không một phần này được kích thích bởi một điện áp đặt vào giữa
cathode và anode: thường là có một không gian tối, gọi là vùng tối
Crookes; rồi một vùng sáng, gọi là ánh sáng âm cực; sau đó là một vùng
tối nữa, gọi là vùng tối Faraday; và cuối cùng là một vùng sáng dương
cực. Nếu như không khí trong ống được hút ra cho đến khi vùng tối thứ
nhất mở rộng ra chiếm đầy ống và toàn bộ các vùng sáng biến mất, thì các
tia phát ra từ cathode có thể nghiên cứu được. Các tia đó tạo ra bóng
đổ, bị lệch bởi từ trường, nhưng có vẻ không bị tác động bởi các lực
tĩnh điện.
Các dạng ống mà Roentgen sử dụng trong năm 1895-1896 để tạo ra tia X. (Ảnh: Bảo tàng Đức, Munich)
Thiết bị Roentgen sử dụng để nghiên cứu sự ion hóa không khí bởi tia X, 1906. (Ảnh: Bảo tàng Đức, Munich)
Khi đặc trưng của nền vật lí tia mới xuất hiện – nền vật lí của tia
cathode, tia X, tia alpha, tia beta, tia gamma, và tia N – bản chất của
tia cathode đang gây tranh cãi, các nhà khoa học Anh thì nghiêng về các
dòng hạt, còn các nhà khoa học ở châu Âu lục địa thì thích nghĩ chúng là
một số dạng nhiễu loạn của ê te. (Vai trò của Anh quốc, và chương trình
do J.J. Thomson phát triển tại Phòng thí nghiệm Cavendish để nghiên cứu
sự ion hóa trong chất khí, sẽ mang lại việc khám phá ra electron. Nhưng
câu chuyện của chúng tôi không đi theo lối này).
Một lí do thuyết phục để tin rằng tia cathode là hạt là việc quan sát
thấy chúng không đi qua vật chất trong suốt đối với ánh sáng tử ngoại.
Khi Heinrich Hertz nhận thấy ông có thể cho các tia ấy đi qua các lá kim
loại, thì một nhà khoa học người Đức, Phillip Lenard, bắt đầu nghiên
cứu chúng một cách thận trọng. Lenard đã thiết kế ra một cái ống với một
cửa sổ nhôm mỏng qua đó các tia có thể ló ra, và ông đo xem chúng có
thể truyền đi bao xa và vẫn gây ra sự huỳnh quang. Xác định theo phương
pháp này, tầm với của tia cathode là 6 đến 8 cm. Các thí nghiệm của
Lenard đã truyền cảm hứng cho Roentgen tự hỏi không biết các tia ấy ở
một dạng suy yếu có thật sự truyền đi nhanh hơn, và ông đã lập các kế
hoạch thí nghiệm để xem một điện nghiệm nhạy có đo được sự phóng điện ở
khoảng cách gấp bốn lần khoảng cách mà Lenard đã nhận ra hay không.
Hướng nghiên cứu này nằm ngoài các mục tiêu nghiên cứu thông thường
của Roentgen, nhưng nó đã mang lại cho ông địa vị quan trọng trong ngành
khoa học Đức. Là con trai của nhà sản xuất và buôn bán vải vóc ở tỉnh
Rhine, thời trẻ Roentgen chẳng phải là chàng sinh viên cần mẫn gì cho
lắm. Cuối cùng, ông mới tìm được đường vào trường Bách khoa ở Zurich,
nơi ông lấy bằng cơ kĩ thuật vào năm 1868 và năm sau đó thì làm nghiên
cứu sinh. Ở Zurich, ông làm phụ tá cho August Kundt và theo ông này
chuyển đến trường Đại học Würzburg, rồi sau đó đến Viện Vật lí tại
Strasbourg. Chức vụ đầu tiên của ông là trưởng khoa vật lí tại Geissen ở
Hesse vào năm 1879, từ đó ông nhận được nhiều lời mời đi khắp nơi. Con
đường thăng tiến trong hệ thống trường đại học ở Đức là đi theo lời mời
đến những trường đại học có danh tiếng ngày một cao hơn, và cuối cùng
lập ra một hội sở của riêng mình. Roentgen đã từ chối các lời mời cho
đến khi trường Đại học Würzburg mời ông làm giám đốc Viện Vật lí của họ.
Năm 1894, ông được bầu làm hiệu trưởng tại Würzburg. Trong lễ nhậm chức
của mình, một năm trước khi ông khám phá ra tia X, Roentgen phát biểu
rằng “trường đại học là một cái nôi của nghiên cứu khoa học và giáo dục
trí tuệ”, và ông lưu ý rằng “việc tự hào với công việc của một người là
cần thiết, nhưng không nên tự cao, hoa mĩ, hay kiêu ngạo, tất cả những
cái này phát sinh từ chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi”.
Joseph John Thomson, 1856–1940. (Ảnh: AIP Niels Bohr Library)
Niềm tự hào của Roentgen có thể tìm thấy trong bốn mươi trang giấy
ông công bố từ Strasbourg, Giessen, và Würzburg. Những đam mê buổi đầu
này của ông bao quát phạm vi khá rộng – tinh thể học, hiện tượng áp điện
và hiện tượng hỏa điện, cùng các tác dụng của áp suất lên chất lỏng và
chất rắn – nhưng chưa kể đến sự phóng điện trong chất khí. Ông đã chuyển
hướng chú ý sang đo các tỉ số nhiệt đặc biệt của các chất khí, sử dụng
một nhiệt kế nhạy do ông tự chế tạo. Ông là một nhà thực nghiệm chính
xác thường tự mình chế tạo thiết bị - một kĩ năng ông học được trong
những năm tháng được đào tạo thành kĩ sư ở Zurich – và ông có thể đo lấy
những hiệu ứng cực kì nhỏ, qua mặt cả các phép đo của Faraday về sự
quay của ánh sáng phân cực trong chất khí.
Roentgen đã chuyển sang một niềm đam mê mới vào tháng 10 năm 1895: đó
là nghiên cứu tia cathode. Trong quá trình lặp lại các thí nghiệm của
Hertz và Lenard, ông bất ngờ để ý thấy một màn hình huỳnh quang phát
sáng khi nó nằm cách ống Crookes một khoảng cách khá xa. Màn hình nằm xa
hơn 6 đến 8 cm so với khoảng cách mà Lenard tìm thấy là khoảng cách cực
đại cho tia cathode duy trì năng lượng của chúng để gây cảm ứng huỳnh
quang. Roentgen nhận thấy hiệu ứng trên đáng để ông chuyên tâm theo đuổi
và ông đã dành 6 tuần tiếp sau đó để nghiên cứu nó một cách không mệt
mỏi.
Phillip Lenard, 1862–1947. (Ảnh: AIP Niels Bohr Library)
Các nhà sử học từng tranh cãi về nguyên do vì sao Roentgen là người
đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của hiệu ứng này. Thiết bị trên, một ống
tia cathode và một màn hình huỳnh quang, đã được sử dụng trong hàng
thập kỉ. Năm 1894, J.J. Thomson đã nhìn thấy sự huỳnh quang trong ống
thủy tinh Đức nằm cách ống phóng điện vài chục cm. Những người khác thì
để ý thấy các tấm kính ảnh bị mờ đi. Nhưng trước khi có công trình của
Lenard, đối tượng nghiên cứu luôn luôn là các hiệu ứng xảy ra bên trong
ống, và ánh sáng tử ngoại cực ngắn có thể dùng để giải thích sự mờ đi
của các tấm kính ảnh. Niềm đam mê lớn nhất của Lenard là chứng minh,
trái với cái người Anh nghĩ, cho bản chất ê te của tia cathode, và ông
là người đầu tiên nghiên cứu các tác dụng của những tia này trong không
khí và trong một ống thủy tinh thứ hai mà ông hứng chúng vào đấy.
Hình trích trong “Wilhelm Conrad Roentgen,” Từ điển Tiểu sử Khoa học. (NewYork: Scribner’s, 1975), trang 531.
Heinrich Rudolf Hertz, 1857–1894. (Ảnh: Bảo tàng Hà Lan và AIP Emilio Segrè Visual Archives)
Roentgen, một nhà thực nghiệm tỉ mỉ và tinh mắt, đã tiến hành những
thử nghiệm rõ ràng trên các tia X mới đó: Chúng có truyền thẳng hay
không? Chúng có bị khúc xạ không? Chúng có bị phản xạ không? Chúng có
khác với tia cathode không? Chúng có bản chất là gì? Giống như tia
cathode, chúng truyền đi theo đường thẳng. Roentgen không thể làm cho
chúng khúc xạ với nước và carbon bisulphide trong lăng kính mica. Ông
cũng không thể tập trung chúng bằng các thấu kính thủy tinh hoặc
ebonite. Với lăng kính ebonite và nhôm, ông để ý đến khả năng các tia
khúc xạ trên kính ảnh nhưng không thể quan sát hiệu ứng này trên màn
hình huỳnh quang. Tiếp tục kiểm tra sau đó, ông nhận thấy tia X có thể
truyền tự do qua những lớp dày gồm muối bột đá mịn, bột muối điện phân,
và bụi kẽm, không giống như ánh sáng nhìn thấy, cái vì sự khúc xạ và
phản xạ mà khó đi qua tất cả. Ông kết luận rằng tia X không dễ gì bị
khúc xạ hay phản xạ bình thường.
Roentgen nhận thấy tia X phát ra từ sự huỳnh quang sáng rỡ trên ống,
nơi tia cathode va chạm với thủy tinh và bị phân tán ra. Điểm gốc của
tia X di chuyển khi tia cathode bị di chuyển bởi từ trường, nhưng bản
thân tia X thì không nhạy với nam châm. Roentgen kết luận rằng chúng
khác với tia cathode, vì công trình nghiên cứu của Lenard đã chứng minh
rằng tia cathode truyền qua ống vẫn giữ hướng truyền của chúng nhưng dễ
bị lệch hướng bởi từ trường.
Roentgen lí giải việc gọi tên tia hiện tượng mới do những hình ảnh lờ
mờ mà chúng tạo ra: các xương trong bàn tay, các sợi dây quấn xung
quanh một con suốt chỉ, các quả nặng trong một cái hộp, một cái la bàn
và kim nam châm giấu trong một thùng kim loại, sự không đồng đều của một
kim loại. Khả năng tạo ảnh của các tia mới đã mang lại cho chúng sức
hấp dẫn lớn đối với công chúng và mang lại danh tiếng cho Roentgen.
Nhiều bài báo xuất hiện trên các tạp chí nhiếp ảnh, và tờ The New-York Times
đã đăng tít khám phá trên bên dưới bức ảnh chụp. Vì các tia đó làm đen
kính ảnh, nên người ta nghĩ chúng là một dạng nào đó của ánh sáng. Nhà
vật lí Roentgen đồng tình như vậy. Chấp nhận các khẳng định của Lenard
rằng tia cathode là các dao động của ê te, Roentgen đã so sánh các tia
mới với chúng và đi tới quan điểm cho rằng cả hai đều có bản chất ê te,
mặc dù khác với ánh sáng nhìn thấy, tia hồng ngoại và tia tử ngoại ở chỗ
chúng không bị phản xạ hay khúc xạ. Ông đề xuất rằng tia cathode và tia
X là các dao động dọc của ê te, chứ không phải các dao động ngang.
Giờ thì sự tồn tại của chúng đã được xác lập, người ta dễ dàng làm
thí nghiệm với các tia X mới đó. Bản thân Roentgen chỉ công bố ba bài
báo về đề tài trên, nhưng những người khác nhanh chóng nhảy vào lĩnh vực
nghiên cứu này. Và không chỉ có các nhà vật lí. Thomas Edison đã sử
dụng các bóng đèn nóng sáng cải tiến để tạo ra các tia mới. Ông khoe với
các phóng viên rằng bất kì ai cũng có thể tạo ra ảnh chụp của xương bàn
tay, đó chỉ là một trò chơi của trẻ con. Chỉ trong một tháng sau công
bố của Roentgen, các bác sĩ đã sử dụng tia X để xác định vị trí của viên
đạn trong da thịt người và chụp ảnh các xương bị gãy. Tiến sĩ Henry W.
Cattell, người trình diễn giải phẫu bệnh tật tại trường đại học
Pennsylvania, đã xác nhận tầm quan trọng của chúng trong việc chẩn đoán
sạn thận và xơ gan, và ông đã bình luận rằng “Trí tưởng tượng giải phẫu
có thể tự đánh mất mình trong khi nghĩ ra vô số ứng dụng của quá trình
tuyệt vời này” (The New-York Times, 15/02/1896, trang 9). Trong
sáu tháng đầu tiên sau khám phá của họ, các xác ướp thành Vienna đã được
phân tích, các bác sĩ khẳng định đã chụp được ảnh não của họ, và trái
tim con người cũng được phanh phui. Năm 1897, mặt nguy hại của tia X
được báo cáo: các thí dụ bao gồm sự rụng tóc và cháy da do liều lượng
biến thiên.
Các kĩ sư điện và các nhà vật lí đã tranh luận về bản chất của những
tia X này. Albert Michelson nghĩ rằng chúng là các xoáy trong ê te.
Thomas Edison và Oliver Lodge thì đề xuất các sóng âm hay sóng hấp dẫn.
Nhưng khả năng chụp ảnh của các tia đó mới là cái quyết định, và các nhà
tư duy nghiêm túc đưa ra ba khả năng, tất cả ba khả năng đều có nguồn
gốc điện từ: chúng là sóng ánh sáng có tần số rất cao; chúng là sóng dọc
(đề xuất ban đầu của Roentgen); hoặc chúng là những xung ngang, rời
rạc, của ê te.
Henri Poincaré, 1854–1912. (Ảnh: AIP Emilio Segrè Visual Archives)
Khá dễ dàng bác bỏ giả thuyết rằng chúng là sóng dọc, bất chấp sự ủng
hộ của Henri Poincaré và ngài Kelvin. Điểm then chốt của câu hỏi là các
sóng đó có bị phân cực hay không. Nếu bị phân cực, thì chúng không thể
nào là sóng dọc được. Mặc dù các thí nghiệm ban đầu về sự phân cực mang
lại kết quả âm tính hoặc không rõ ràng, nhưng với sự khám phá ra một tia
khác nữa, tia uranium của Henri Bequerel cho cái ông khẳng định đã tìm
thấy sự phân cực, thì các tia đó ở châu Âu lục địa lập nên một kiểu hình
thuyết phục. Nó đi từ các dao động ê te ngang tần số từ thấp đến cao:
ánh sáng, tia uranium, tia X. Tia uranium do những khoáng chất nhất định
giải phóng ra, và chúng không cần thiết bị nào để tạo ra chúng, nhưng
chúng có những tính chất nhất định giống với tia X. Chúng làm đen kính
ảnh và chúng làm cho các chất khí dẫn điện.
Các nhà vật lí người Anh thì xem xét khả năng tia X là các xung động
trong ê te thay vì các sóng liên tục. Vị giáo sư toán học ngạch Lucasian
tại Cambridge, ngài George Gabriel Stokes, cùng người đồng nghiệp của
ông và là giám đốc Phòng thí nghiệm Cavendish, J.J Thomson, thì kiên
định với giả thuyết xung vào năm 1896. Nó phù hợp với quan điểm của họ
về tia cathode là các hạt (Thomson công bố khám phá ra các tiểu thể đó,
hay các electron, vào một năm sau đó). Sự dừng lại đột ngột của một hạt
tích điện, sau một khoảng trễ thời gian nhỏ xíu, sẽ mang lại sự truyền
ra ngoài của một xung điện từ. Với phép đo chính xác của Thomson về tỉ
số điện-tích-trên-khối-lượng và lí thuyết electron thành công của H.A
Lorentz, lí thuyết giải thích được nhiều hiện tượng hấp dẫn, các nhà vật
lí Lục địa bắt đầu chấp nhận, trước sự mất tinh thần của Lenard, rằng
tia cathode là các hạt vật chất, còn tia X là các xung trong ê te.
Ảnh chụp tia X đầu tiên công bố trước công chúng. Bàn
tay của nhà phẫu thuật danh tiếng, Albert von Kölliker, chụp trong bài
giảng đầu tiên của Roentgen trước Hội Vật lí Y khoa Würzburg, hôm
23/01/1896.
Những kết quả mới sớm xuất hiện sau đó. Hai nhà vật lí người Hà Lan,
Hermann Haga và Cornelius Werd, công bố rằng tia X có thể bị nhiễu xạ,
và một nhân vật tại Göttingen tên là Arnold Sommerfeld đã thực hiện một
phân tích toán học của sự nhiễu xạ, chứng minh rằng kết quả của họ có
thể giải thích theo các xung không có chu kì cố định. Năm 1904, Charles
Glover Barkla, một học trò của Stokes lẫn Thomson tại Cambridge, chứng
minh rằng tia X có thể bị phân cực phẳng, trong khi đang thí nghiệm với
các tia X thứ cấp và tam cấp. (Những tia này được sinh ra qua việc chiếu
tia X vào các chất rắn).
Khi tia X bắt đầu biểu hiện, ngày một nhiều dần, các tính chất của
ánh sáng, thì tia uranium mang lại những bí ẩn mới. Bản thân chúng gồm
ba dạng tia riêng biệt: tia alpha, beta và gamma. Những tia này có bản
chất là gì? Thật bất ngờ cho vật lí học, cái gần như đã gần đi tới kết
luận, lại phải đối mặt trước những khám phá định lượng, không thể giải
thích nổi. Chúng không “thuộc chữ số thập phân thứ sáu” như Michelson dự
đoán. Tại hội nghị quốc tế về vật lí học do Hội Vật lí Pháp tổ chức ở
Paris vào năm 1900, có đến tròn 9% số bài báo là nói về cơ sở vật lí của
các tia mới.
Năm 1899, Ernest Rutherford, một học trò khác của Thomson và là người
trở thành người kế vị của ông làm giám đốc Phòng thí nghiệm Cavendish,
đã tách li tia alpha, có thể làm dừng lại bằng một lá kim loại hoặc các
tờ giấy, khỏi các tia beta có tính đâm xuyên hơn. Năm 1900, Rutherford
đã nhận ra tia beta là các electron tốc độ cao: bị lệch trong từ trường,
chúng thể hiện tỉ số điện-tích-trên-khối-lượng thật chính xác. Một
thành phần thứ ba của tia uranium, không bị chệch hướng và có tính đâm
xuyên cao, đã được Paul Villard tại trường Ecole Normale Superieur ở
Paris phát hiện ra. Rutherford đặt tên cho chúng là tia gamma. Trong
luận án năm 1903 của bà, Marie Curie đã thực hiện các so sánh sau đây:
tia gamma với tia X; tia beta với tia cathode; và tia alpha với tia ống
(Tia ống là các dòng phân tử tích điện dương).
Arnold Johannes Wilhelm Sommerfeld, 1868–1951. (Ảnh: AIP Niels Bohr Library)
Vài năm sau đó lại xuất hiện một câu chuyện khác nữa. Nhà khoa học
người Anh William Henry Bragg đã công bố vào năm 1907 rằng tia X và tia
gamma thật ra không phải là sóng ê te, mà là các hạt, một cặp trung hòa
như thế này: electron cộng với hạt tích điện dương. Nghiên cứu nghiêm
túc của Bragg bắt đầu ở cái tuổi muộn màng, 41, sau 20 năm vui thú tại
trường đại học Adelaide, Australia, nơi ông chơi golf và giải trí đàn
đúm cùng các viên chức chính phủ. Ông công bố công trình sáng tạo mới
của mình trong một bài diễn văn đọc trước Hiệp hội Australia vì Sự tiến
bộ Khoa học, trong đó ông đã nêu ra một nhận xét quan trọng về công
trình của Rutherford, nêu nghi vấn đối với định luật giảm theo hàm số mũ
đối với sự hấp thụ tia alpha. Trong hai năm rưỡi, mỗi vài tháng ông lại
cho công bố một bài báo, những nghiên cứu đã đưa ông đến chỗ phát biểu
triệt để rằng tia X là các hạt. Quan điểm của ông dựa trên hai thực tế:
(i) tia X kích thích số phân tử chất khí trong đường đi của chúng ít hơn
so với trông đợi từ một nhiễu loạn dạng sóng, và (ii) vận tốc của các
electron kích thích bởi tia X lớn hơn vận tốc mà một sóng có thể mang
đến cho chúng. Vào lúc này, Bragg và người con trai của ông đã trở lại
nước Anh, và lí thuyết của họ gây ra sự tranh cãi mạnh mẽ ngay cả trong
đất nước mà các hạt được ưa chuộng và là nơi mà sự mô phỏng kì lạ của
các hiện tượng vật lí được người ta dễ dàng chấp nhận. Đối thủ to tiếng
nhất của họ là Charles Barkla, ông này cho rằng sự ion hóa của vật chất
là một hiệu ứng thứ cấp không nhất thiết phải quy cho bản chất sóng của
tia X. Ở phần sau, chúng ta sẽ trở lại với vấn đề tập trung năng lượng
tia X, cái không thể giải thích nổi theo dạng sóng, cái đã khai sinh ra
quan điểm sâu sắc của Louis de Broglie về bản chất sóng của vật chất.
Còn tiếp.... update sau
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét