13. Những hình thức lịch
sử của phép biện chứng. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và những
yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi.
Những
hình thức lịch sử của phép biện chứng
Triết
học có nhiều phương pháp; trong đó có 2 phương pháp cơ bản là: phương pháp siêu
hình và phương pháp biện chứng.
“Biện chứng” là khái niệm dùng để chỉ các mối
liên hệ, sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng. Phương pháp biện
chứng là phương pháp nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ với những sự vật
hiện tượng khác và nhận thức đối tượng trong trạng thái động nằm trong khuynh
hướng chung là phát triển. Phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ, về
sự vận động và phát triển. Với tư cách là học thuyết, phép biện chứng thể hiện
tri thức của con người về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển. Do đó,
phép biện chứng vừa là lý luận vì phép biện chứng là học thuyết về các mối liên
hệ, học thuyết về sự vận động và phát triển; vừa là phương pháp vì phép biện chứng
là hệ thống những nguyên tắc, những yêu cầu đòi hỏi con người phải nhận thức đối
tượng trong các mối liên hệ, trong sự vận động của quá trình phát sinh, phát
triển và diệt vong của nó.
Phép
biện chứng phát triển qua 3 hình thức cơ bản: chất phác, duy tâm, duy vật.
Phép
biện chứng chất phác là học thuyết về các mối liên hệ, về trạng thái vận động
và phát triển dựa trên trực quan, nặng tính ngây thơ, chất phác và biểu hiện rõ
nét ở thời cổ đại. Tiêu biểu cho phép biện chứng chất phác ở thời cổ đại phương
Đông là quan điểm về Dịch, về Âm Dương, Ngũ hành ở Trung Quốc. Tiêu biểu cho
phép biện chứng chất phác thời cổ đại ở phương Tây là quan điểm của Heraclit ở
Hy Lạp.
Phép
biện chứng duy tâm là học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển
của các nhà triết học duy tâm. Cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, đỉnh cao của
phép biện chứng duy tâm được thể hiện trong học thuyết của nhà triết học cổ điển
Đức Hegel. Hegel đã xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật chung, thống nhất,
chặt chẽ về logic của nhận thức tinh thần, và ở một ý nghĩa nhất định là của cả
hiện thực vật chất. Nếu phép biện chứng cổ đại chủ yếu được rút từ kinh nghiệm
cuộc sống hằng ngày, thì phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức đã trở thành hệ thống
lí luận tương đối hoàn chỉnh và trong một chừng mực nhất định, đã trở thành
phương pháp tư duy triết học phổ biến.
Giữa
thế kỉ XIX, phép biện chứng duy vật do Marx và Engels xây dựng trên cơ sở kế thừa
trực tiếp những nội dung hợp lý trong phép biện chứng của Hegel. Như vậy, đặc
trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật là phép biện chứng duy vật được xây dựng
trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học và phép biện chứng duy vật
không chỉ giải thích các mối liên hệ, trạng thái vận động và phát triển của thế
giới mà nó còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
Nội
dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Nội
dung của phép biện chứng duy vật được khải quát thành 2 nguyên lý. Hai nguyên
lý này được cụ thể hóa qua các quy luật. Các quy luật được chia thành 2 loại
là: các quy luật không cơ bản (còn gọi là các cặp phạm trù cơ bản của phép biện
chứng duy vật) và các quy luật cơ bản.
Hai nguyên lý của phép
biện chứng duy vật
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện
tượng khác mà chúng luôn nằm trong những mối liên hệ với nhau.
Nguyên lý về sự phát triển:
Mọi sự vật không ngừng vận động trong khuynh hướng chung là phát triển. Nguồn gốc
của sự vận động và phát triển là mâu thuẫn của sự vật; cách thức của sự vận động
và phát triển là lượng của sự vật đổi dẫn đến chất của sự vật đổi và ngược lại;
khuynh hướng của sự vận động và phát triển diễn ra quanh co, phức tạp được thể
hiện bằng đường xoáy ốc đi lên; đây là quá trình phủ định của phủ định mà hết mỗi
một chu kỳ sự vật lặp lại dường như cái ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Những quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật
Quy luật cơ bản thứ nhất
là quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược
lại hay còn gọi tắt là quy luật lượng-chất; đây là quy luật về cách thức của sự
vận động và phát triển. Mọi sự vật, hiện tượng đều có chất và lượng. Chất tương
đối ổn định, còn lượng thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi đến một mức nhất định
và trong những điều kiện nhất định thì chất sẽ thay đổi. Khi đó sự vật, hiện tượng
chuyển hóa. Sự vật, hiện tượng mới ra đời có chất mới, lượng mới. Lượng vẫn thường
xuyên biến đổi, nhưng sự biến đổi của lượng mới khác sự biến đổi của lượng cũ.
Sự khác nhau này do chất quy định. Như vậy, từ những thay đổi về lượng đã dẫn đến
sự thay đổi về chất; và, từ những thay đổi về chất lại đã dẫn đến sự thay đổi về
lượng.
Quy luật cơ bản thứ hai
là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi tắt là quy
luật mâu thuẫn; là quy luật về nguồn gốc của sự vận động và phát triển, được
coi là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật. Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể
thống nhất bao gồm những yếu tố khác nhau, liên kết với nhau tạo thành; trong
đó có những yếu tố vận động ngược chiều nhau, gọi là những mặt đối lập. Hai mặt
đối lập tạo nên một mâu thuẫn. Những mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một mức độ nhất định
thì mâu thuẫn được giải quyết. Khi đó sự vật, hiện tượng chuyển hóa. Như vậy,
mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Quy luật cơ bản thứ ba
là quy luật phủ định của phủ định hay còn gọi là quy luật phủ định cái phủ định;
là quy luật về khuynh hướng của sự vận động và phát triển. Vận động, phát triển
không diễn ra theo đường thẳng mà là quá trình quanh co, phức tạp được biểu diễn
bằng hình xoáy ốc đi lên. Đây là quá trình phủ định của phủ định; trong đó cái
mới ra đời thay thế cái cũ và hết mỗi một chu kỳ sự vật, hiện tượng lặp lại như
cái ban đầu nhưng ở mức độ phát triển hơn.
Những quy luật không cơ
bản của phép biện chứng duy vật
Những
quy luật không cơ bản của phép biện chứng duy vật còn gọi là “Những cặp phạm
trù cơ bản của phép biện chứng duy vật”. Những cặp phạm trù này là
sự cụ thể hóa nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Phép biện chứng
duy vật có 6 cặp phạm trù cơ bản, là: Cái riêng và cái chung; Nguyên
nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu nhiên; Nội dung và hình thức; Bản
chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực.
Những
yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi
Nguyên
tắc toàn diện: Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó với tư cách
là một chỉnh thể với tất cả những yếu tố cấu thành và những mối liên hệ của nó;
phải chống tư tưởng phiến diện, một chiều, chiết trung, ngụy biện.
Nguyên
tắc lịch sử - cụ thể: Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó
trong những môi trường cụ thể, điều kiện cụ thể, không gian – thời gian cụ thể,
những mối liên hệ cụ thể cũng như vị trí, vai trò cụ thể của nó; đồng thời phải
chống thái độ hời hợt, tư tưởng qua loa, đại khái.
Nguyên
tắc phát triển: Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó trong trạng
thái vận động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển; phải tìm ra nguồn gốc,
cách thức, khuynh hướng của sự vận động và phát triển ấy; đồng thời phải ủng hộ
cái mới – cái phù hợp với quy luật của phát triển và chống tư tưởng bảo thủ,
trì trệ.
14. Nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận với thực tiễn.
Thống
nhất giữa lý luận với thực tiễn là lý luận và thực tiễn phải gắn
bó hữu cơ với nhau; trong đó, thực tiễn phải có lý luận dẫn đường,
còn lý luận phải lấy thực tiễn làm cơ sở, làm động lực, là mục
đích và là nơi kiểm tra mình đúng hay sai.
Hoạt
động vật chất là hoạt động con người sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật
chất tác động vào những đối tượng vật chất nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của
mình. Vì mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau con người tiến hành những hoạt động
này khác nhau và xã hội quy định mục đích, lực lượng, công cụ, v.v. của hoạt động.
Do đó, “thực tiễn” là toàn bộ hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo hiện thực.
Thực
tiễn rất đa dạng nhưng được biểu hiện dưới 3 hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất
vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt
động sản xuất vật chất là cơ bản nhất. Ba hình thức trên tuy khác nhau nhưng thống
nhất với nhau, ảnh hưởng nhau, hỗ trợ nhau.
Lý
luận là hệ thống tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất của các sự vật,
hiện tượng. Kết quả của quá trình nhận thức là tri thức.
Tri
thức có thể chia thành 2 cấp độ là tri thức kinh nghiệm (kinh nghiệm) và tri
thức lý luận (lý luận). Trong đó, “kinh nghiệm” là kết quả của quá trình
quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng. Và
kinh nghiệm đem lại tri thức bề ngoài của đối tượng và chỉ đem lại
hiệu quả cho hoạt động của con người khi điều kiện không thay đổi.
Trong khi đó, “lý luận” là hệ thống tri thức được rút ra từ quá trình tổng kết,
đúc kết kinh nghiệm; của quá trình học tập, nghiên cứu nghiêm túc trên nền tảng
của một vốn kiến thức nhất định, một năng lực tư duy nhất định. Và lý luận
đem lại tri thức về nội dung, bản chất; về những quy luật chi phối
quá trình hình thành phát sinh, phát triển của đối tượng; vì vậy,
nó đem lại hiệu quả cho hoạt động của con người ngay cả khi điều
kiện đã hoàn toàn thay đổi.
Thực
tiễn có vai trò to lớn; trong đó, thực tiễn là cơ sở, là động lực và là
mục đích của lý luận nói riêng, của nhận thức nói chung; và nó là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý. Nó là cơ sở của lý luận vì hoạt động nhận thức
để hình thành nên lý luận được thực hiện trên nền tảng của thực
tiễn. Quá trình thực hiện các hoạt động thực tiễn là quá trình con
người tích luỹ tri thức để xây dựng nên lý luận. Nó là động lực của
lý luận vì thực tiễn thúc đẩy lý luận phát triển. Sở dĩ như vậy
vì các hoạt động của thực tiễn luôn đặt ra những vấn đề buộc con
người phải nhận thức để giải quyết. Quá trình nhận thức giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra làm lý luận ngày càng phát triển
sâu sắc và phong phú. Nó là mục đích của lý luận vì suy cho cùng
mọi kết quả của nhận thức, trong đó có lý luận, phải hướng về quá
trình sản xuất ra của cải vật chất; về xây dựng các quan hệ xã hội tốt
đẹp hơn; để con người tiến gần tới cái chân, thiện, mỹ hơn. Tất cả
những mục đích đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn với thực tiễn.
Và cuối cùng, nó là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý vì thực tiễn là nơi
kiểm nghiệm, đánh giá lý luận nói riêng, nhận thức nói chung đúng hay
sai.
Vì
lý luận đem lại tri thức về nội dung, bản chất của đối tượng; về
những quy luật chi phối quá trình hình thành phát sinh, phát triển
của đối tượng và đem lại hiệu quả cho hoạt động của con người ngay
cả khi điều kiện đã hoàn toàn thay đổi nên lý luận đóng vai trò định
hướng, dẫn đường cho các hoạt động của thực tiễn. Trong đó, vai trò định
hướng, dẫn đường của lý luận thể hiện ở nó định hướng mục tiêu; xác
định chiến lược, sách lược, đường lối, chủ trương, chính sách; xác
định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện; dự báo (thành
quả, hậu quả, rủi ro, v.v.) để con người chuẩn bị ứng phó; V.v.
Nghiên
cứu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nhận thức rõ
vai trò của lý luận, vai trò của thực tiễn cho thấy hoạt động lý
luận phải bám sát thực tiễn, phản ánh những nhu cầu của thực tiễn
và phải góp phần giải quyết những nhu cầu đó; đồng thời phải luôn
tổng kết, đúc kết thực tiễn để bản thân lý luận ngày thêm phong
phú, sâu sắc. Bên cạnh đó, thực tiễn phải lấy lý luận dẫn đường,
phải vận dụng lý luận cho phù hợp với từng hoạt động cụ thể, từng bối
cảnh cụ thể. Ngoài ra, phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều, v.v… Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Marx - Lenin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông.
15. Nội dung cơ bản của
lý luận Hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của lý luận này đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Bài
làm 1 (dài)
Nội
dung cơ bản của lý luận Hình thái kinh tế - xã hội
Hình
thái kinh tế – xã hội là phạm trù dùng để chỉ một xã hội trọn
vẹn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể; có những quan hệ sản xuất
bị trình độ của lực lượng sản xuất quy định, những quan hệ sản
xuất này tạo nên kết cấu kinh tế (cơ sở hạ tầng) của xã hội và
trên nó được xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng.
Xã
hội có cấu trúc phức tạp song được khái quát thành 3 lĩnh vực cơ
bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (những quan hệ sản xuất này
tạo nên kết cấu kinh tế hay cơ sở hạ tầng của xã hội) và kiến trúc
thượng tầng. Trong đó, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cấu thành
phương thức sản xuất.
Phương
thức sản xuất là cách thức sản xuất ra của cải vật chất của con
người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất quyết
định các mặt của đời sống xã hội; mỗi xã hội được đặc trưng bằng một
phương thức sản xuất nhất định. Bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng
gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất là
toàn bộ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất; nó biểu hiện
mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất.
Và quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất.
Ta
có lực lượng sản xuất gồm: người lao
động và tư liệu sản xuất. Trong đó, tư liệu sản xuất gồm: tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Và tư liệu lao động gồm: công cụ lao động
và phương tiện lao động. Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
thì người lao động giữ vai trò quyết định vì người lao động là chủ
thể của các yếu tố còn lại. Còn công cụ lao động là yếu tố cực kỳ
quan trọng vì công cụ lao động quyết định năng suất lao động và biểu
hiện khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất
là thường xuyên biến đổi theo chiều hướng phát triển nên nó là yếu
tố động, mang tính cách mạng.
Những
biểu hiện cơ bản của quan hệ sản xuất gồm: quan hệ sở hữu tư liệu sản
xuất; quan hệ quản lý và phân công lao động; quan hệ phân phối sản
phẩm. Các quan hệ của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết với
nhau, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu giữ vai trò quyết định đối với
hai quan hệ còn lại. Quan hệ sản xuất ít thay đổi; nó là yếu tố tĩnh,
mang tính bảo thủ.
Biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện qua quy luật
“quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
Khi đó, trình độ của lực lượng sản xuất được xét ở: Sức khỏe và trí
tuệ của người lao động; hàm lượng khoa học trong công cụ lao động và
phương thức sản xuất; tính chất hợp lý trong khai thác đối tượng lao động.
Nội
dung của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là yếu tố động, mang tính cách mạng, trình độ của lực
lượng sản xuất thường xuyên phát triển; song, khi nó phát triển đến một
mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với
trình độ mới của lực lượng sản xuất. Khi đó, phương thức sản xuất mới ra
đời. Trong toàn bộ quá trình này, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, sản xuất phát triển, xã hội phát triển; nếu không, nó sẽ
kìm hãm toàn bộ sự phát triển ấy.
Cụ
thể, trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, tức là
trình độ của lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất phải
như thế vậy, tức là nó phải tương ứng với trình độ của lực lượng sản
xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thường xuyên phát triển; khi nó
phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay
đổi theo cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Còn quan
hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, thể hiện ở chỗ nếu quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nó sẽ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, kìm hãm sản xuất.
Như
vậy, để sản xuất phát triển, xã hội phát triển thì phải đầu tư vào sự
phát triển của lực lượng sản xuất; trong đó, trước hết và quan trọng
nhất phải đầu tư vào sự phát triển của người lao động và công cụ
lao động. Ngoài ra, phải từng bước hoàn thiện tất cả các quan hệ của
quan hệ sản xuất (đặc biệt là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất) để quan hệ
sản xuất có thể tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất.
Cơ
sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo nên kết cấu kinh tế
của xã hội. Toàn bộ những quan hệ sản xuất đó gồm: quan hệ sản xuất
thống trị; quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Trong ba
loại quan hệ sản xuất trên, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò thống
trị.
Kiến
trúc thượng tầng là hệ tư tưởng của xã hội và những thiết chế tương
ứng với hệ tư tưởng đó. Trong đó, hệ tư tưởng là các học thuyết, hệ
thống các quan điểm,… Thiết chế tương ứng là các tổ chức và các công
cụ vật chất mà các tổ chức ấy sử dụng để thực hiện hệ tư tưởng.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, vai trò của các yếu tố trong kiến
trúc thượng tầng được thể hiện khác nhau.
Biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thể hiện qua quy luật
“Kiến trúc tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng”. Nghĩa là cơ sở hạ tầng sinh ra
kiến trúc thượng tầng tương ứng và quyết định tính chất của kiến trúc
thượng tầng; song, kiến trúc thượng tầng có thể tác động trở lại cơ sở hạ
tầng với tư cách là động lực thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển
kinh tế, thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã hội. Trong đó, cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng ở chỗ mỗi cơ sở hạ tầng sinh ra
một kiến trúc thượng tầng tương ứng và quyết định tính chất của kiến
trúc thượng tầng. Và khi cơ sở hạ tầng thay đổi kiến trúc thượng tầng cũng
phải thay đổi theo. Trong khi đó, kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ
sở hạ tầng khi kiến trúc thượng tầng luôn củng cố, bảo vệ cơ sở hạ tầng đã
sinh ra nó. Và kiến trúc thượng tầng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển kinh tế thông qua tác động của nó đến các quan hệ sản xuất cấu
thành cơ sở hạ tầng.
Về
ý nghĩa phương pháp luận, một là, không ngừng từng bước hoàn thiện cơ sở hạ
tầng thông qua việc hoàn thiện quan hệ sản xuất thống trị và mối quan hệ
của nó với các loại quan hệ sản xuất khác thông qua chính sách về các
thành phần kinh tế, chính sách đối với người lao động, chính sách
tiền lương,… để hình thành nên kết cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy sản
xuất phát triển. am à, Không ngừng hoàn thiện kiến trúc thượng tầng thông
qua việc xây dựng hệ tư tưởng khoa học, nhân văn; xây dựng bộ máy Đảng,
Nhà nước và các tổ chức xã hội trí tuệ, trong sạch, vững mạnh để
hoạt động của các tổ chức này tác động theo chiều tích cực đến cơ sở hạ tầng,
đến nền kinh tế của xã hội.
Ý
nghĩa của lý luận này đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay
Về
nhận thức Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam cho ta dự báo của Marx, Engels, Lenin về Chủ nghĩa xã hội; Chủ
nghĩa xã hội quá khứ, hiện tại và tương lai và thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau
khi thống nhất đất nước, cả nước đã quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, đảng ta
luôn vận dụng lý luận của chủ nghĩa M.Lênin trong đó có lý luận hình thái kinh
tế xã hội vào việc đề ra các chủ trương phát triển đất nước, tuy nhiên do chủ
quan duy ý trí còn có quan niệm ẫu trí về Chủ nghĩa xã hội và lo lắng có ngay Chủ
nghĩa xã hội lên chúng ta mắc phải một số quyết điểm nghiêm trọng cả về lý luận
và thực tiễn.
Một
là, từ chỗ khẳng định Việt Nam quá độ thẳng lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta đã có một nhận thức hết sai làm là bỏ qua
tất các những gì thuộc về Chủ nghĩa tư bản, không tiếp thu những yếu tố hợp lý,
tích cực của nó vào sự phát triển, vô hình chúng ta đã từ bỏ những thành tựu của
nhân loại đạt được làm cho chúng ta không tận dụng được các khâu trung gian các
bước quá độ cần thiết để vững chăc chế độ xã hội với trên cơ sở tiếp thu kế thừa
có chọn lọc những tinh hoa do nhân loại đã tạo ra.
Hai
là, nhận thức nhân gian về Chủ nghĩa xã hội trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa
xã hội, do chúng ta nhận thức chưa đầy đủ và hết sưc gian nan về Chủ nghĩa xã hội,
và do tư tưởng nôn nóng muốn có ngay Chủ nghĩa xã hội trong thời gian gắn cho
lên dẫn đến thưc hiện xây dựng Chủ nghĩa xã hội chẳng những chúng ta không đạt
được mục tiêu đề ra mà còn phá hoại nghiêm trọng sản xuất và làm nảy sinh nhiều
tiêu cực về xã hội.
Ở
nước ta, bệnh chủ quan duy ý trí đã từng thể hiện ở chỗ đánh giá tình hình thiếu
khách quan, say sưa với thắng lợi, không thấy hết khó khăn, phức tạp, vạch ra
các mục tiêu khá cao, coi thường việc khuyến khích lợi ích thực chất, cường điệu
động lực tinh thần, muốn bỏ qua giai đoan tất yếu để tiến nhanh, không tôn trọng
các quy luật khách quan.
Sự
hình thành và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng như chủ nghĩa xã hội,
là một quá trình lịch sử tự nhiên, tuân theo các quy luột khách quan. Vì vậy, nếu
con người muốn thay đổi xã hội theo ý muốn chủ quan hay muốn dùng mệnh lệnh để
xoá bỏ các giai đoạn phát triển tự nhiên của nó thì không tránh khỏi “sự trớ
trêu”.
Đứng
trước thực tế, khủng hoảng kinh tế xã hội nảy sinh và ngày trở nên trầm trọng,
Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đổi mới đất nước đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI.
Để
thực hiện thắng lợi công cuộc Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chúng ta phải nỗ lực
hơn nữa trong việc nhận thức và sử dụng quy luật khách quan của sự phát triển
xã hội, trong đó về hình thái xã hội.
Bài làm 2 (ngắn)
Nội
dung cơ bản của lý luận Hình thái kinh tế - xã hội
Mỗi
Hình thái kinh tế - xã hội là một xã hội trọn vẹn, có cấu trúc phức
tạp song 3 yếu tố cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng. Trong đó, lực lượng sản xuất là yếu tố thường xuyên phát
triển, khi nó phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất
phải thay đổi theo. Quan hệ sản xuất thay đổi làm cơ sở hạ tầng thay đổi,
cơ sở hạ tầng thay đổi dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng.
Đến đây, tất cả các yếu tố tạo nên một Hình thái kinh tế-xã hội đã
thay đổi, Hình thái kinh tế-xã hội này chuyển sang một Hình thái kinh tế-xã
hội khác cao hơn, xã hội này chuyển sang một xã hội khác phát triển hơn.
Học
thuyết Hình thái kinh tế-xã hội cho thấy: Một là, xã hội là một chỉnh
thể có cấu trúc phức tạp, các lĩnh vực của xã hội có vị trí, vai
trò khác nhau song có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó sản
xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội; phương
thức sản xuất giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ đời sống xã
hội. Hai là, sự phát triển của các Hình thái kinh tế-xã hội (cũng là
sự phát triển của xã hội) là quá trình lịch sử – tự nhiên; tức là
sự phát triển này không tuân theo ý muốn chủ quan của con người mà
tuân theo những quy luật khách quan, trong đó, trước hết và quan trọng
nhất là quy luật về lục lượng sản xuất – quan hệ sản xuất, quy luật
về cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng. Ba là, vận dụng học
thuyết vào hoạt động nhận thức và thực tiễn. Tức là, về nhận thức, muốn
rút ra những kết luận về đời sống xã hội không được xuất phát từ ý tưởng chủ
quan của mình mà phải xuất phát từ hiện thực khách quan, phải tìm
nguồn gốc sâu xa của các hiện tượng xã hội từ quá trình sản xuất vật
chất, từ đời sống chất. Còn về thực tiễn, để cải tạo xã hội phải
tiến hành cải tạo đồng bộ cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng. Và để xã hội phát triển, trước hết phải đầu tư vào
sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó quan trọng nhất là đầu
tư vào sự phát triển của người lao động, công cụ lao động; phải từng
bước hoàn thiện các quan hệ của quan hệ sản xuất và hoàn thiện các
yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng.
Về
nhận thức Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam cho ta dự báo của Marx, Engels, Lenin về Chủ nghĩa xã hội; Chủ
nghĩa xã hội quá khứ, hiện tại và tương lai và thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ý
nghĩa của lý luận này đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay
Sau
khi thống nhất đất nước, cả nước đã quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, đảng ta
luôn vận dụng lý luận của chủ nghĩa M.Lênin trong đó có lý luận hình thái kinh
tế xã hội vào việc đề ra các chủ trương phát triển đất nước, tuy nhiên do chủ
quan duy ý trí còn có quan niệm ẫu trí về Chủ nghĩa xã hội và lo lắng có ngay Chủ
nghĩa xã hội lên chúng ta mắc phải một số quyết điểm nghiêm trọng cả về lý luận
và thực tiễn.
Một
là, từ chỗ khẳng định Việt Nam quá độ thẳng lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta đã có một nhận thức hết sai làm là bỏ qua
tất các những gì thuộc về Chủ nghĩa tư bản, không tiếp thu những yếu tố hợp lý,
tích cực của nó vào sự phát triển, vô hình chúng ta đã từ bỏ những thành tựu của
nhân loại đạt được làm cho chúng ta không tận dụng được các khâu trung gian các
bước quá độ cần thiết để vững chăc chế độ xã hội với trên cơ sở tiếp thu kế thừa
có chọn lọc những tinh hoa do nhân loại đã tạo ra.
Hai
là, nhận thức nhân gian về Chủ nghĩa xã hội trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa
xã hội, do chúng ta nhận thức chưa đầy đủ và hết sưc gian nan về Chủ nghĩa xã hội,
và do tư tưởng nôn nóng muốn có ngay Chủ nghĩa xã hội trong thời gian gắn cho
lên dẫn đến thưc hiện xây dựng Chủ nghĩa xã hội chẳng những chúng ta không đạt
được mục tiêu đề ra mà còn phá hoại nghiêm trọng sản xuất và làm nảy sinh nhiều
tiêu cực về xã hội.
Ở
nước ta, bệnh chủ quan duy ý trí đã từng thể hiện ở chỗ đánh giá tình hình thiếu
khách quan, say sưa với thắng lợi, không thấy hết khó khăn, phức tạp, vạch ra
các mục tiêu khá cao, coi thường việc khuyến khích lợi ích thực chất, cường điệu
động lực tinh thần, muốn bỏ qua giai đoan tất yếu để tiến nhanh, không tôn trọng
các quy luật khách quan.
Sự
hình thành và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng như chủ nghĩa xã hội,
là một quá trình lịch sử tự nhiên, tuân theo các quy luột khách quan. Vì vậy, nếu
con người muốn thay đổi xã hội theo ý muốn chủ quan hay muốn dùng mệnh lệnh để
xoá bỏ các giai đoạn phát triển tự nhiên của nó thì không tránh khỏi “sự trớ
trêu”.
Đứng
trước thực tế, khủng hoảng kinh tế xã hội nảy sinh và ngày trở nên trầm trọng,
Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đổi mới đất nước đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI.
Để
thực hiện thắng lợi công cuộc Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chúng ta phải nỗ lực
hơn nữa trong việc nhận thức và sử dụng quy luật khách quan của sự phát triển
xã hội, trong đó về hình thái xã hội
Tài liệu bổ ích cho những học viên học lớp thầy Tình
Trả lờiXóa